Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2008

Quảng Ngãi quê mình trăm mến ngàn thương.....








Dư âm của tiếng hát chiều phượng xưa còn nghe vẳng đâu đây, gờn gợn theo sóng nước Trà Giang.

Du khách ơi! Có khi nào người ghé về miền Trung hãy dừng chân lại xứ Quảng, miền núi Ấn sông Trà, quê xưa của Chiêm Thành và phần đất ngày nay của quê hương Việt Nam mến yêu.

Trải bao năm lịch sử thăng trầm, sóng triều Nam tiến từng đợt sinh tồn dâng cao từ ngày sát nhập vào bản đồ Việt Nam, miền đất Quảng này đã bao lần thay đổi danh hiệu :

Cổ Lũy Châu, Tư Nghĩa Phủ, Quảng nghĩa phủ, Hòa nghĩa phủ, Quảng Ngãi doanh, Quảng Ngãi trấn, và ngày nay là tỉnh Quảng Ngãi.

“Cấm thành rạng vẻ, tươi sông núi

Quảng Ngãi hưng màu, đẹp đất đai”

Quảng Ngãi tỉnh cũng là đất của Chiêm Thành, lấy núi ấn sông Trà làm biểu tượng, đỉnh thiên bút làm nơi khởi văn phong, Quảng Ngãi là 1 dải đất hình chữ nhật dài từ dốc sỏi đến đèo bình Đê, bề ngang ước độ rộng 40km – 60km, bề dài 98km, diện tích 4359 km2 với dân số lúc bấy giờ là 1.263.880 người người, gồm 13 Huyện và TX Quảng Ngãi , cách Sài gòn 877 cây số …

Bây giờ du khách đang đứng trên đất Quảng rồi đó, nhìn về phía tây là những dãy núi trùng trùng điệp điệp, cao nhất là ngọn Cadam, nối theo là rừng rậm bao la với nguồn lâm sản dồi dào, gỗ qúi nhất là hàng trăm mẫu quế tại Trà Bồng, Sơn Hà. Ở giữa, đây là vùng Trung Châu với diện tích cây lúc 4 vụ mùa khá lớn … nhờ có thế nước của 4 con sông lớn là: sông Vệ, sông Trà Câu, sông Trà Bồng, và sông Trà Khúc với các hệ thống dẫn thủy, guồng tát nước tự động… phục vụ tưới tiêu 4 mùa.

Nhìn về phía Đông du khách nhớ đến các cửa biển lớn : Đại Cổ Lũy Mỹ Á, Sa Kỳ, và xa cách lục địa 24 cây số là đảo Lý Sơn với giếng nước ngọt, chùa Hang, và nhất là ngọn Hải Đăng quanh năm soi ánh sáng dẫn dắt các tàu về trú an toàn… và du khách cũng không thể quên được bãi biển Sa Huỳnh nơi có nhiều ruộng muối, có cổ tích Chiêm Thành và nhất là bãi biển Thừa Lương, Mỹ Khê, quê hương của danh thần Trương Đăng Quế, vị Thái sư đã từng phục vụ ba triều vua, từng nêu cao gương ái quốc và thanh bạch.

Tìm hiểu núi sông trải 2 mùa mưa nắng quanh năm, du khách hãy nhớ đến thắng cảnh Quảng Ngãi qua vần thơ :

“Chạnh niềm non nước lẽ đầy vơi

Cẩm quận từ xưa cảnh có mười

Ấn giáp long đầu thêm rạng vẻ

Bút kê thạch trận ngắm càng tươi

Tà dương điếu tẩu mưa cùng nắng

Dục nguyệt bàn sa cảnh nhớ người

Cổ Lũy hà nhai người cảm cảnh

Kìa non nọ nước khéo trêu người"

Từ xưa các bậc tiền bối đã chọn lựa 10 cảnh tiêu biểu cho thắng cảnh Quảng Ngãi…

1. Thiên ấn Nam Hà

2. Thiên bút Phê Vân

3. Long đầu hý Thủy

4. La Hà thạch trận

5. Cổ Lũy cô thôn

6. Thạch Bích tà dương

7. Hà Nhai vãn độ

8. An Hải sa bàn

9. Liên Trì dục Nguyệt

10. Vân phong túc võ

Thật ra phải có sẵn tâm trạng riêng biệt của người địa phương, pha 1 ít tưởng tượng về màu sắc, âm thanh, lòng yêu quê hương hòa hợp với âm thanh thiên nhiên, khi ngắm cảnh mới rung cả được trước vẻ đẹp thơ mộng hùng tráng của xứ Quảng.

Mang thử tâm trạng trên du khách thử leo lên đỉnh Ấn mới thấy Thiên Ấn Niêm Hà nghĩa là Ấn trời đóng trên sông thật là đẹp, xứng đáng là đệ nhất thắng cảnh của địa phương.

Người dân Quảng Ngãi nào cũng hãnh diện khi giới thiệu với du khách thắng cảnh Thiên Ấn Niêm Hà, một đỉnh đồi tọa lạc tả ngạn Trà Giang, cao độ 105m, vuông vức như quả Ấn , rộng khoảng 10 mẫu, bằng phẳng nơi có tổ đình Thiên Ấn, có giếng Phật mạch sâu 30m, nước ngọt có đỉnh chuông thần, có mộ của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng…

Đứng trên đỉnh Thiên Ấn hồn du khách như lâng lâng mơ về biển Đông xanh ngát, buồm trắng nhấp nhô, ngoảnh về phía Tây là dãy Trường Sơn hùng vĩ, nhìn dưới chân đồi là dòng Trà Giang đang chảy nước cuốn ven nhịp cầu nối đôi bờ… du khách khi đứng trước cảnh này lòng sẽ mơ về dĩ vãng, khẽ ngâm vầng thơ xưa của quê hương xứ Quảng:

“Trà Giang Thiên Ấn chuông gầm sóng

Vang tiếng ngàn xưa đất Cẩm Thành

Ngàn năm qủa Ấn nằm trơ mốc,

Một dải sông Trà chảy sậm xanh

Xót hồn cỏ độ sương vài giọt,

Xích bóng tà huy, nguyệt mấy canh

Nghìn dặm cố nhân đâu đó tả,

Cánh chim nghe lạnh đập qua mành”

Ngắm cảnh, ai mà lại không nhớ người? Hỡi du khách người hãy nhớ đến những danh nhân xứ Quảng, một thời với các danh thần Lê Văn Duyệt, Trương Đăng Quế, những chí sĩ cách mạng từng nêu cao gương anh dũng, bất khuất của người quê hương như Trương Công Định, Lê Trung Đình, Nguyễn Thụy đã phất cao cờ khởi nghĩa chiếm thành đuổi Pháp, những gương hiếu tử với đệ nhất hiếu tử Nguyễn Văn Danh giết cọp trả thù cha và cuối cùng là những nhà thơ lớn của Quê hương xứ Quảng và cũng là của Quê hương Việt: Tú Cang, Học Ý, Bích Khê, Tế Hanh… tất cả những nhân vật ấy là tinh hoa, tiêu biểu cho tinh thần cách mạng, ý chí bất khuất của ngưới dân miền núi Ấn sông Trà.

Hỡi du khách có biết chăng, người đã lạc vào xứ đường mía, có đường bông trắng, có đường phèn Ba La, có mật ong Ba Tơ, có quế nguồn Trà Bồng… Quảng Ngãi tuy xa xôi nghèo nàn nhưng tình thương mến đậm đà qua hương vị món ăn. Trước khi du khách giã từ xứ Quảng xin hỏi nhỏ là người đã thử cá bống Sông Trà chưa? mạch nha Mộ Đức chưa? kẹo gương? chim mía Xuân Phổ? Bò khô Thu Ba? Cua Huỳnh Đế Sa Huỳnh … và nếu có thì 1 tô don Vạn Tượng trong 1 buổi sáng tạm biệt, người có thể tự nhủ với lòng rằng mình đã hưởng trọn vẹn hương vị miền núi Ấn sông Trà…

Đám cưới làng




Tôi còn nhớ như in, cách đây chừng độ hơn chục năm, khi mà việc cưới xin chưa bị thương mại hóa như ngày nay thì mỗi khi có anh nào, chị nào chuẩn bị lên xe hoa cả làng lại vui như hội. Tất thảy đều vui niềm vui của đôi trẻ, vui niềm vui của hai họ.

Quà cưới ngày ấy cũng đơn giản, có khi chỉ là chai rượu nhạt góp vui, là chục trứng vẫn còn mùi “hương” của gà mẹ, hay đôi lúc chỉ là việc xắn tay vào nhổ lông vịt, đánh tiết canh, bưng bàn, kê ghế... Những người trong làng vừa đi làm đồng về cũng rửa qua bùn đất một tí rồi ai vào việc nấy. Việc của nhà người rồi bỗng chốc cũng thành việc của nhà mình, không ai câu nệ.

Sướng nhất là đám nhóc chúng tôi chạy lăng xăng khắp nơi và không quên bốc thêm nắm xôi đậu xanh thơm phức. Mấy bà mấy o thì miệng cứ rủa: “cha tổ tụi bây...”, nhưng tay lại cố dúi dúi thêm cho chúng tôi ổ bánh mì, miếng thịt...

Lớn dần, tôi ít đi dự đám cưới, một phần vì thấy mình đã lớn không giành ăn với lũ nhỏ, một phần vì bố mẹ không cho. Chưa kể bây giờ đám cưới ở làng không còn giản đơn như ngày xưa nữa mà đã thành một gánh nặng cho gia chủ và cả khách mời. Tội nghiệp mẹ tôi cứ nghe cưới xin là chân cẳng lộn vòng... cố ra chợ bán thêm con gà, buồng chuối để đủ tiền trưa nay còn có thứ mà nhét vào “hòm thư” hình trái tim ở lễ thành hôn của con người ta... Thế mà vẫn còn may, có nhà kẹt quá còn phải bán đỡ mấy ký thóc giống.

Cách thức người ta tổ chức đám cưới cũng khác trước nhiều, ồn ào hơn, xô bồ hơn. Rạp cưới được thuê từ a đến z, họ sẽ mang đến tự lắp rồi tự tháo. Ngay đến cả bàn ghế cũng chẳng phải đi mượn khắp xóm, không phải lấy hòn than ghi tên nhà cho mượn vào dưới gầm bàn như ngày trước vì đã có “dịch vụ” cho thuê trọn gói. Loa máy công suất lớn cũng được điều đến, hôm sau mới cưới mà chiều nay nhạc đã mở tưng bừng... Bữa nay cũng chẳng có đám nào uống rượu, lúc nào ở sát bếp có hòm hòm 20 chục thùng bia chai gia chủ mới yên tâm là không thẹn với bà con chòm xóm.

Càng về sau này, những đám cưới ở làng như đã đi theo một kịch bản. Phần một là các nghi lễ cưới xin, ăn uống. Phần hai là màn văn nghệ chào mừng với sự hỗ trợ đắc lực của các nhạc công được thuê từ trên huyện về. Khi khách bắt đầu thưa dần là các màn bật nhạc sàn, nhạc bốc để đám thanh niên nhảy nhót. Hạ màn bao giờ cũng phải có tiếng ly chén đổ bể, là những màn đánh đấm kinh hãi... sẽ có người chảy máu, thậm chí còn tệ hơn thế nữa.

Đám cưới làng giờ là thế đó. Ngồi hầu chuyện với các cụ cao niên trong làng thấy mắt cụ nào cụ nấy dù đã kèm nhèm nhưng vẫn đỏ hoe vì nhớ đám cưới ngày xưa...

Câu chuyện vui về Khám sức khỏe


Một hôm, sau khi tan sở, H vào quán cà phê ngồi thư giản. Một cô gái đến gần mời anh mua bảo hiểm. H nói sức khỏe anh không tốt sẽ làm tổn thất tài chính cho công ty cô. Cô gái nói hay là để cô kiểm tra sức khỏe tổng quát cho anh. Hai người dắt nhau vào khách sạn qua đêm. Sáng thức dậy, cô gái nói với H là sức khỏe anh rất tốt, lại dẻo dai nữa. H nói với cô gái, vậy đưa hợp đồng đây cho anh ký. Cô gái nói với H là việc kiểm tra sức khỏe cần phải tiến hành kỹ lưỡng, nên hẹn với H là sẽ tiến hành kiểm tra thêm vài lần nữa. Khi H về đến nhà, ba mẹ hỏi cậu ấy đi đâu suốt đêm không về. H nói với ba mẹ là cậu ấy có một cuộc kiểm tra sức khỏe với một cô gái. Ba mẹ H hỏi kết quả thế nào, H nói là rất tốt. H nói con khỏe và cô ấy cũng khỏe. Ba mẹ H hỏi, con cũng biết kiểm tra sức khỏe sao. H nói, con không biết nhưng con nghe người ta nói, một người mà la lớn thì sức khỏe không tồi.

Hihihi.

Thế là sức khỏe mình tốt.

Đi khám sức khỏe

Hôm nay mình chở mẹ đi khám sức khỏe tổng quát. Mình không thể tưởng tượng được là đông đến mức ấy. Đi khám từ sáng cho đến trưa mà mới có 4 cái xét nghiệm. Ngày mai phải đi tiếp. Cầu trời phù hộ cho mẹ mình có kết quả tốt, không có triệu chứng gì bất thường xảy ra.

Ơn nghĩa sinh thành (4)

Bài bốn: Ngọn nến không tắt



Ánh đèn tù mù không chiếu sáng nổi căn nhà tăm tối. Tô Văn Khải cặm cụi ngồi đan rổ rá. Nước da sạm đen, gương mặt khắc khổ, anh trông già hơn hẳn tuổi đời 35 của mình.

Cha mẹ bị nhiễm chất độc da cam và bị thương mất sức nặng từ lúc còn trong chiến khu Tây Ninh. Hai em gái là Nương và Huệ chào đời sau chiến tranh cũng bị bại não. Khải may mắn được là người bình thường và trách nhiệm gia đình dồn hết lên vai anh.

Là con, là anh và là cha mẹ

Tuổi thơ Tô Văn Khải ở Tây Ninh là chuỗi ngày khốn khó. Mới lên lớp 4, Khải đã tự đi làm đồng để lo toan việc nhà, có lúc gia đình không còn cả khoai mì ăn cầm hơi. Thương cha thương mẹ một đời nghèo khó nuôi con, nhiều đêm đợi cha mẹ ngủ, Khải lặng lẽ đẩy xe đạp vào rừng, gom cành cây khô đốt than để về đổi gạo. Có lúc bị lực lượng tuần rừng đuổi bắt, Khải sợ hãi trốn biệt luôn trong rừng. Khải nói mình ít học, đúng hơn là tự nghỉ học sớm để lăn ra đời làm đủ thứ nghề nuôi sống gia đình. Hết việc ruộng vườn, cậu lại đi mót phân bò trên đồng. Lúc ấy, cả gánh phân chỉ đổi được vài lon gạo nhưng cũng là niềm vui lớn vì cha mẹ lại có được bữa cơm nóng.

Cuối những năm 1980, cả gia đình chuyển về xã Trung Lập Thượng, huyện Củ Chi (TP.HCM) để có điều kiện chăm sóc cha mẹ ngày càng đau nặng. Chứng cao huyết áp và phù thũng làm tay chân ông Tô Văn Mô yếu hẳn, không cầm nổi vật nặng nữa. Còn bà Lê Thị Hái thì vết thương trên đầu tái phát. Nó là miểng bom trong chính trái bom ngày xưa đã giết chết người em trai ngay trước mắt bà, và làm hai chân bà co rút bại liệt cùng với thần kinh lúc tỉnh lúc mê.

Khải thương nhất là hai em gái bị bại não, các em hầu như không biết làm bất cứ việc gì, kể cả tự đưa chén cơm lên miệng. Bình thường hai em cứ lầm lũi như chiếc bóng trong nhà, nhưng mỗi khi trời trở nắng nóng, chứng động kinh lại hành hạ các em, những cơn đau làm các em tự dằn xé, lao đầu vào vách, mặt mày lúc nào cũng chằng chịt vết sẹo, vết bầm vì té ngã. Khải đi đâu, làm việc gì cũng không thể yên tâm khi hai em ở nhà. Rất nhiều lần anh đã cứu sống em trong gang tấc khi cơn động kinh làm các em té ngã xuống kênh, ao quanh nhà. Đi làm về là Khải một tay tắm rửa, đút cơm cho các em. Có món gì ngon Khải cũng dành mang về cho em.

Những ngày không tìm được việc làm, Khải cõng mẹ đi quanh quẩn trong nhà, ngoài sân để mẹ dịu bớt cơn đau, như một chuyến đi chơi của người già. Có hôm mẹ bất ngờ tái bột phát bạo bệnh trong đêm, Khải vừa khóc vừa cõng mẹ trên vai băng đồng chạy đến trạm xá xã, có lúc cõng xuống tận trung tâm y tế huyện.

Một mình Khải gánh vác cả nhà đau ốm ngặt nghèo, nhưng bà con lối xóm cho hay chưa bao giờ nghe anh than lấy một lời. Khải nói buồn nhất là căn nhà bặt hẳn tiếng cười. Anh kể có lúc tưởng cả gia đình đã cùng ra đi khi anh đổ bệnh liệt giường ròng rã suốt hơn một tháng. Tiền nong không. Gạo củi, thuốc men cũng không. Cha, mẹ, các em mỗi người nằm lê lết một góc nhà. Trong cơn khốn cùng, anh cầm chai thuốc trừ sâu, muốn gia đình không cùng sống thì sẽ cùng chết bên nhau. May mà anh kịp tỉnh lại và ráng sức gượng dậy để giữ tròn đạo hiếu.

Sau lần ấy, Khải như già thêm mươi tuổi. Anh ý thức được sự sống của mình quan trọng đối với gia đình đến chừng nào. Nhiều đợt lo chữa bệnh cho cha mẹ, Khải phải âm thầm đi vay tiền. Gia đình không có gì để thế chấp vay ngân hàng, anh phải vay nóng bên ngoài với lãi suất đến 40%/tháng, rồi nhịn ăn và lăn ra làm ngày làm đêm để trả nợ. Sau này nghe người trong xóm kể lại, cha mẹ anh đã khóc hết nước mắt: “Hay con cứ để ba má ra đi. Như vậy ba má còn thấy nhẹ lòng hơn. Chứ con gánh vác cả đời như vậy sức đâu mà chịu thấu”.

Nỗi buồn và hi vọng



Ông Tô Văn Mô là con trai út trong gia đình có bốn liệt sĩ. Đến đời Khải thì cũng chỉ có mình anh là con trai để nối dõi gia đình. Ông bà yếu lắm rồi, sợ ra đi không thấy được tương lai, niềm vui của đứa con trai độc nhất. Họ nhiều lần nhắc chuyện vợ con cho anh nhưng Khải đều lắc đầu nấn ná.

Ông bà Mô xúc động hiểu lòng con hiếu thảo nên khơi gợi vào chính “yếu điểm” của anh: “Cả nhà chỉ có một đứa con trai. Nếu con không lo sinh cháu cho ba má thì phạm tội bất hiếu con ơi. Lấy vợ đi rồi sinh cháu cho ba má yên tâm”. Khải khóc, thắp nén nhang cắm lên bàn thờ.

Ngày Khải quyết định ngỏ chuyện cưới xin một cô gái hiền lành làm thuê chung xóm, ông bà Mô mừng đến phát khóc. Một lễ cưới thật nghèo nhưng chan hòa tình cảm gia đình hàng xóm. Cháu Tô Thị Khài chào đời, ông bà Mô ngồi lặng cả đêm bên bàn thờ bốn liệt sĩ trong gia đình, cầu xin cho cháu được bình thường và cũng là cho sự tiếp nối của dòng họ. Bé Khài lên 3 tuổi chưa biết nói, chỉ lầm lũi vọc đất cát chơi một mình. Cả nhà lo sợ tưởng sự bất hạnh vẫn chưa từ bỏ gia đình. Rồi bỗng dưng một ngày bé bật lên tiếng ông, bà ngọng nghịu. Mọi người sững sờ, rồi chảy nước mắt vì mừng. Những tiếng cười đầu tiên đã vang lên trong căn nhà nghèo khó.

Nhưng khốn khó vẫn chưa buông tha người con hiếu thảo, em Nương trong một cơn động kinh đã không thể vượt qua khỏi. Nhìn con gái cả đời phải sống bất hạnh rồi ra đi trong đau đớn, bà Mô cứ khóc và đổ bệnh nằm liệt giường. Khải lại cõng mẹ vào bệnh viện, chạy chữa hơn một tháng ở Bệnh viện Trưng Vương. Người mẹ gần 30 năm mê nhiều hơn tỉnh, nhưng đến ngày cuối đời lại rất tỉnh táo. Bà chia tay chồng, ôm chặt cháu trong lòng, rồi trăng trối với Khải: “Con đừng buồn để má ra đi trong thanh thản. Các con ở lại phải ráng lo cho ba, lo cho em Huệ nữa, chỉ có con mới có thể gánh vác việc này”.

Em gái mất, mẹ mất. Tất cả tình thương yêu của Khải dành cho những người thân còn lại trong gia đình. Hết cõng mẹ, bây giờ anh lại ngày ngày cõng cha bị bại liệt. Vợ chồng Khải không còn dám cùng đi đâu ra ngoài dù chỉ trong chốc lát, vì lo cho cha và em có thể phát bệnh bất cứ lúc nào. Cha Khải thương con, an ủi: “Ba má già như chuối chín cây đến ngày phải rụng. Con nên dành thời gian cho vợ cho con. Đó là hạnh phúc, là tương lai của con và cũng là niềm vui của ba má ở thế giới bên kia”.

Nước mắt, nụ cười của sự khổ đau lẫn tình thương yêu lại quyện vào nhau trong ngôi nhà nghèo khó. Khải như một ngọn nến giữa bôn ba cuộc đời, nhưng ngọn nến ấy không bao giờ tắt. Ngoài cổng, bé Khài vừa đi học về, lễ phép vòng tay thưa ông, thưa ba. Nụ cười trên môi người con hiếu thảo thật rạng rỡ.

Ơn nghĩa sinh thành (3)

Bài ba: Một lời trăng trối

Bốn năm trước, tại Bệnh viện Ung bướu TP.HCM có một bệnh nhân sống “kỷ lục” ở đây - đến gần mười năm. Bà Nguyễn Thị Phẳng bị ung thư từ năm 1992, đến năm 1994 tái phát mạnh phải nhập viện. Bà bán ngôi nhà ở phường Tân Lập, Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc) để gói ghém mấy chỉ vàng vào TP.HCM điều trị. Số gia tài ít ỏi đã mau chóng ra đi theo căn bệnh quái ác. Tiền hết, bà xin ở lại hẳn trong bệnh viện, sống bằng những bữa cơm từ thiện và giúp đỡ những bệnh nhân. Trong thời gian điều trị, bà Phẳng gặp bà Hoàng Thị Bích Vân, một bệnh nhân quê ở Bà Rịa - Vũng Tàu, nằm kề bên đang bị ung thư giai đoạn cuối. Hai người đàn bà cùng trạc tuổi xem nhau như bạn, cùng chăm sóc cho nhau. Bà Phẳng lo chuyện tắm giặt, vệ sinh, đút ăn cho bà Vân những lúc con bà Vân chưa lên kịp.

Rồi những ngày cuối cùng cũng đến, bà Vân nói với bà Phẳng: “Nhìn hoàn cảnh của chị tôi lo quá, tôi mà đi sớm thì còn ai bầu bạn, lo toan cho chị. Chị Phẳng à, tôi có năm đứa con trai, tôi cho chị chọn một đứa làm con nuôi để nó đỡ đần hoàn cảnh cô đơn của chị về sau này. Chị nhận thằng Út đi, lúc sinh nó ra tôi bệnh không cho bú được, nó lớn lên bằng sữa bò nên luôn thiếu tình thương của mẹ”. Cậu út Ân đang chuẩn bị thi đại học, nhưng từ hồi bà Vân ngã bệnh Ân luôn túc trực trong bệnh viện phụng dưỡng và chăm sóc mẹ.

Một chiều cuối tháng 8-2002, bà Vân gọi Ân đến bên giường bệnh, thều thào trăng trối: “Mẹ đã hứa cho con làm con nuôi má Phẳng, mẹ ra đi, con hứa với mẹ là ráng chăm sóc má Phẳng như con từng chăm sóc mẹ vậy. Má Phẳng là một người tốt trên đời này nhưng lại bất hạnh không có chồng con”. Hôm sau thì bà Vân mất, Ân mồ côi mẹ song từ hôm đó lại xuất hiện một hình bóng người mẹ khác đau ốm, nhỏ nhắn, hiền lành đang sống thoi thóp trong mắt Ân. Lời trăng trối của mẹ không bao giờ Ân quên, Ân gọi bà Phẳng là má, những chuỗi ngày nuôi mẹ trong bệnh viện lại kéo dài ra.

Bảy tháng sau ngày bà Vân mất, bà Phẳng trở bệnh nặng, đau nhức từ trong xương rồi không thể trở dậy được, bắt đầu nằm liệt giường trong bệnh viện. Ân quyết định mang sách vở vào, ngồi dưới sàn nhà chăm sóc má Phẳng như ngày nào đã chăm sóc mẹ Vân. Ngày trước khi mẹ Vân còn sống, anh em Ân ít khi phải lo công việc tắm rửa cho mẹ vì đã có một tay má Phẳng, nay thì chỉ một tay Ân lo cho má nuôi. Một ngày đẹp trời, Ân chạy như bay vào bệnh viện báo tin cho má Phẳng hay mình đã thi đậu vào đại học, ngành Đông Nam Á học. Bà Phẳng mừng đến rơi nước mắt. Và mầu nhiệm thay, niềm vui đã làm bà trở mình vượt qua đau đớn, bệnh tật và bắt đầu tập đi trở lại rồi xin xuất viện. Hai mẹ con đi tìm thuê nhà trên đường Trần Văn Kỷ. Bà Phẳng kể: “Tui đi lại được là cũng nhờ thằng Ân, nó ôm lưng tui, một chân nó đá chân tui lên phía trước rồi đẩy người và đá tiếp chân thứ hai... Cứ thế, từng ngày từng ngày, cho tới lúc tui bắt đầu vịn tường mà đứng lên, đi được”.



Đạo làm con

Bây giờ, Ân ngày ngày có mặt ở cái phòng cũ của bốn năm về trước. Ân đã đưa má Phẳng nhập viện lại. Mấy ngày nay má đau, Ân chỉ đi học một buổi, còn lại thì ở hẳn trong bệnh viện. Nhiều người nói thời gian khỏe trở lại của người bệnh ung thư là báo hiệu một chuyến đi dài sắp bắt đầu.

Sau khi xuất viện, hai mẹ con đi thuê nhà ở là thời gian má Phẳng vui nhất. Con đi học, đi làm thêm, mẹ ở nhà nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa. Nhưng niềm vui không kéo dài lâu, đến tháng 3-2005, những cơn đau lại tái phát. Bà Phẳng bắt đầu phải nằm nhiều hơn đi, rồi liệt dần, không thể tự mình đi vệ sinh, một tay Ân phải lo cho má. Đó là những ngày Ân học trên giảng đường mà cứ thấp thỏm giờ giải lao chạy từ trường về nhà 15 phút để làm vệ sinh cho má, xong lại chạy 15 phút đến trường. Ngày đậu vào ngành Đông Nam Á học, Ân đã có đến ba lựa chọn: du lịch, văn hóa và kinh tế. Ân thích học văn hóa nhưng khi biết ngành đó học vào buổi sáng thì Ân lại chuyển sang học buổi chiều - ngành du lịch. Bởi buổi sáng Ân phải dậy sớm vệ sinh cho má, bóp tay chân cho má, cho má ăn... làm sao đi học được. Tới giờ Ân vẫn thấy hài lòng với lựa chọn của mình.

Vậy là vào lại bệnh viện, cũng khoa nội 4, cũng căn phòng ngày xưa nơi mẹ Vân và má Phẳng cùng nằm, Ân cũng lại nằm kế bên má Phẳng dưới sàn nhà. Bà Phẳng bây giờ đã 58 tuổi. Đã bốn năm trôi qua, bốn năm đủ để bà có một tình mẫu tử, một đứa con hiếu thảo hiếm thấy. Bà Phẳng đã yếu lắm rồi, bà từng khát khao một ước mơ lớn nhất cuối đời: được trở về Buôn Ma Thuột thăm lại ngôi mộ mẹ ruột của mình. Và bà đã được toại nguyện, Ân đã cùng bà về xây lại ngôi mộ thật đẹp, khang trang và đưa bà về phố núi hẳn một tuần để được ngồi trước mộ mẹ mình, dọn nhánh cỏ, quét nhành cây, gặp lại những người hàng xóm xưa, ngồi nhắc với nhau chuyện thời hai mẹ con với mấy sào đất, chuyện đi làm thuê làm mướn nuôi mẹ, chuyện bệnh tình... phải rời khỏi đất chôn nhau cắt rốn và đi lưu lạc tưởng không có ngày về. Bà Phẳng tâm tình: “Tôi sống đến như vậy đã là mãn nguyện lắm rồi, cuối đời có được đứa con hiếu thảo hiếm thấy. Chỉ tiếc một điều là không thể sống tới ngày được thấy thằng Ân thành thân”.

Thời gian trước còn nghe Ân kể chuyện đang tìm nơi thực tập, nhưng nay Ân nói tạm gác chuyện đó lại vì mấy hôm nay má Phẳng cứ đau nhức khắp người, không thể để má ở một mình. Ân nói: “Tôi luôn có cảm giác mẹ Vân đang hiện hữu trong hình hài của má Phẳng, tất cả những gì tôi làm là cho những người mẹ. Tôi chào đời thiếu tình mẫu tử, không được sống chung với mẹ, vì nhà nghèo phải gửi vào chùa để ăn học. Tôi có ít thời gian được gần mẹ, chăm sóc mẹ, lo cho má Phẳng là cách để tôi bù đắp những thiếu thốn tình mẹ. Chữ hiếu, đạo làm con đối với tôi quan trọng lắm”.

Ơn nghĩa sinh thành (2)

Bài hai: “Mẹ không bao giờ trách con”

Nhiều người Hà Nội vẫn chưa quên hình ảnh đau lòng khi một cụ bà ở Trung tâm Bảo trợ xã hội 3 xuất hiện trên truyền hình khóc nghẹn ngào kể về sự nhẫn tâm của con gái ruột của mình đã đoạt chiếm bán đứt căn nhà của cụ, rồi đuổi cụ ra khỏi nhà. Không nơi nương tựa, cụ phải vào trung tâm bảo trợ xã hội sống nốt đoạn đời ngắn ngủi còn lại. Bác sĩ Hải nói đó có lẽ là trường hợp duy nhất ở trung tâm có một người mẹ công khai thừa nhận việc bị con đối xử tệ bạc. Còn hầu như tất cả các cụ bao giờ cũng lặng thinh hoặc ngoảnh mặt đi khi có người hỏi thăm về chuyện con cái của mình.

Ngay cả cụ T. sau khi bức xúc phát biểu trên truyền hình về sự tàn nhẫn của con, khi có ai đến hỏi thăm về chuyện cũ, cụ đều lắc đầu bảo thôi đừng nhắc nữa. Chỉ có một lần, cụ T. thổ lộ với bác sĩ Hải rằng: “Tôi ân hận lắm cô ạ. Dẫu nó có đối xử với tôi tệ bạc như thế nào chăng nữa thì nó cũng là con của mình rứt ruột đẻ đau. Ông bà mình bảo hùm dữ còn không nỡ ăn thịt con mà, nước mắt chảy xuôi cô ạ. Mình nói ra như vậy tôi sợ nó không còn mặt mũi nào nhìn mọi người xung quanh nữa, tôi ân hận lắm”. Và cụ T. đã không bao giờ nhắc lại câu chuyện đau lòng này cho đến khi xuôi tay nhắm mắt. Lúc sắp qua đời, cụ T. còn nắm chặt trong tay tấm ảnh đen trắng nhạt nhòa chụp hình cụ và cô con gái khi còn bé. Lời nói cuối cùng của cụ T. với các nhân viên là lời nhắn yêu thương dành cho đứa con bội bạc: “Mẹ thương con lắm, mẹ không trách gì con đâu”.



Ngồi ở một góc trong căn phòng tập thể, đôi mắt cụ bà T.T.Y. nhìn đăm đắm về một cõi xa. Mấy năm nay, cụ vẫn tích cóp từng đồng lương hưu ít ỏi của mình và những món quà gom góp được của các nhà hảo tâm để gửi cho cậu con trai nghiện ngập ma túy. “Tội nghiệp nó ở ngoài đó không có ai chăm sóc, lo lắng. Tôi ở trong này xem như cũng ổn rồi, nhưng cứ nghĩ đến nó là lại không yên lòng”, cụ nói. Thỉnh thoảng có đoàn khách hảo tâm đến cho ít kẹo, mọi người lại thấy cụ không dám ăn mà lặng lẽ đi về phía góc giường, dấm dúi nhét ít kẹo vào bọc nilông dưới gối để dành cho con mình. Hằng tháng, anh con trai nghiện ngập lại tìm đến trung tâm. Sau khi nhận ít tiền, ít quà của cụ lại lặng lẽ ra đi, chẳng buồn hỏi thăm mẹ một lời.

Khi tiếp nhận cụ Y. vào trại, hồ sơ ghi gia cảnh cụ chỉ có vài dòng: “Con trai đang cai nghiện ma túy”. Nhưng nhiều người từng biết cụ Y. cho hay cụ còn có một người con gái nữa nhưng chưa từng thấy xuất hiện ở đây. Hỏi cụ Y. thì bao giờ cụ cũng ậm ờ qua chuyện, bảo rằng có một đứa con gái thật, nhưng “thôi, đừng nhắc làm gì. Nó không nuôi nổi mình cũng có nỗi khổ của nó. Trách nó làm gì”. Những người hàng xóm cũ của cụ Y. kể: chồng mất sớm, cụ Y. tần tảo buôn bán ở cửa hàng nhà nước để nuôi hai con. Lớn lên cả hai con chẳng làm lụng gì, chỉ biết đợi đến tháng lương của mẹ để xin tiền tiêu xài. Đến khi cụ về hưu thì cả hai con đồng lòng bán căn nhà và đưa mẹ vào trung tâm bảo trợ xã hội.

Cả trung tâm ai cũng thương cụ Y.. Cứ mỗi khi lễ, tết có được một bữa ăn ngon, cụ Y. lại không ăn mà ngồi thẫn thờ nhớ con: “Ngày trước có thứ gì ngon tôi cũng nhường cho mấy đứa con cả, không biết bây giờ chúng còn được ăn ngon không”. Những người bạn già của cụ Y. cùng buông đũa và ai cũng trào nước mắt.



“Phương án” của những đứa con

Một nhân viên lâu năm của Trung tâm Bảo trợ xã hội 3 nói rằng anh cảm thấy buồn và ray rứt nhất khi dự đám tang của các cụ. Thường thì đám tang chỉ có nhân viên của trung tâm và những người bạn già tiễn đưa, ít thấy con cái vào đưa tang. Thế nhưng cũng có những đám tang đông người đến bất ngờ. Ôtô lớn, nhỏ ùn ùn dừng trước cổng trung tâm còn nhộn nhịp hơn cả đám tang ở dưới phố.

Những cụ vào đây thui thủi một mình cả chục năm không có một người thân nào đến thăm, vậy mà khi qua đời không hiểu từ đâu đàn con cháu cả chục người, gái trai, dâu rể cùng đến khóc lóc thảm thiết. Nhưng sau khi làm xong những “thủ tục” thì ra xe phóng đi thẳng. “Nhiều cụ khi mất tôi mới biết các cụ còn có con cái, cháu chắt bên ngoài, thậm chí nhiều người rất giàu có”, bác sĩ Hải tâm sự.

Cụ bà B. sống ở trung tâm rất lâu, hồ sơ cụ không cho biết còn con cái ngoài đời. Vậy mà khi cụ qua đời, cùng lúc cả bốn con trai con gái đi xe hơi riêng đến chịu tang và khóc than mẹ. Người nào cũng tỏ ra hối hận vì không được nhìn mẹ giây phút cuối, họ giành nhau xin phép trung tâm đưa mẹ về chôn cất. Nhưng sau khi xong phần an táng, cả đàn con đều quay trở lại trung tâm và hỏi rằng mẹ mình có để lại di chúc gì không. Khi biết bà cụ đột ngột nhắm mắt không trăng trối điều gì, cả đám con gây gổ với nhau rồi bỏ đi không một lời từ giã.

Nhiều nhân viên trung tâm cứ nhớ hoài câu chuyện trước đây từng có hai người đàn ông trung niên thuê xe ôm đưa một ông lão đau yếu đến trung tâm. Họ bảo rằng mình là người trong thôn thấy “ông già này không còn người thân, không ai chăm sóc” nên mủi lòng đưa ông đến trung tâm nhờ giúp đỡ. Mãi cho đến khi ông lão qua đời, hai người đàn ông kia mới xuất hiện trở lại thắp một nén nhang rồi bỏ đi. Một người họ hàng xa với ông cụ đến dự đám tang cho biết đó là hai người con trai ruột của cụ. Vì đùn đẩy trách nhiệm nuôi bố nên cuối cùng họ thống nhất “phương án” đưa bố vào trại dưỡng lão.

Mới đây, Trung tâm Bảo trợ xã hội 3 tổ chức đám tang cho cụ bà N.T.A., 89 tuổi. Gần chục năm sống trong trung tâm, cụ A. đều cho biết mình góa bụa, không có con cái. Ngày chuẩn bị chôn cất cụ, có đôi nam nữ trông rất giàu có, sang trọng đến xin đưa tang. Mọi người hỏi thăm thì họ không nói gì, đến khi quan tài hạ huyệt chợt người đàn ông bật khóc: “Mẹ ơi, hai anh em con có tội lớn với mẹ lắm. Chúng con đã không lo lắng, nuôi dưỡng mẹ những ngày cuối đời. Chỉ vì nghe lời chồng, lời vợ mà đuổi mẹ ra đường. Chúng con là những đứa con bất hiếu”.

Những giọt nước mắt đã quá muộn màng.

Trong khi có những người con quên câu ơn nghĩa sinh thành, bỏ mặc cha mẹ thì vẫn có những người con nhìn bóng cha như núi, thấy lòng mẹ như biển. Họ một đời lặn lội phụng dưỡng mẹ cha. Và đây là câu chuyện đầu tiên.

Ơn nghĩa sinh thành (1)

Entry for July 04, 2007 magnify

Ơn nghĩa sinh thành

Bài 1: Trời xanh có thấu...


“Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, có phải ai cũng thuộc lòng câu ơn nghĩa sinh thành ấy? Có kẻ mới chập chững ra đời đã vội quên công cha trong dòng xoáy tiền tài, có người lam lũ suốt một đời nhưng vẫn tôn thờ hình bóng mẹ. Và có những người mẹ, người cha mãi mãi là bóng cả soi bóng mát cho đàn con đi xa.

Sư thầy Nguyên Pháp, trụ trì chùa Diệu Pháp (TP.HCM), kể có lần mái ấm chùa Diệu Pháp đón một cụ bà tứ cố vô thân do “những người hàng xóm” gửi vào. Đến khi bà qua đời, chùa tổ chức tang ma thì “những người hàng xóm” kéo đến chịu tang. Họ chính là con ruột của bà, họ gửi mẹ vào chùa để tiện tay bán chia căn nhà. Những trường hợp như vậy đâu phải ít.

“Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”

Ông M. cứ loay hoay trên chiếc giường nhỏ, xếp đi xếp lại ba bốn tấm hình, hình chứng minh nhân dân, hình chân dung người vợ quá cố đến khi mãn phần vẫn không được trở về ngôi nhà thân quen mà phải làm ma chay nhờ vào lòng từ thiện của bá tánh trong chùa. Ông nói mà giọng run run: “Vô đây ăn uống của chùa vậy mà ngon hơn bữa cơm ở nhà”.

Sinh năm 1923 ở Cái Bè (Tiền Giang), cuộc đời của ông M. ba chìm bảy nổi. Đi làm lơ xe, rồi lái xe, lái từ xe khách tới xe tải, làm riết thấy không khá, ông đưa vợ và ba đứa con lên Sài Gòn tá túc trong một mái hiên trên đường Đề Thám, hẻm 182. Có người giới thiệu ông vào làm cho UNICEF, làm nghề đào giếng tận miền Đông, Tây nguyên.

Hàng chục năm trời ông không dám nghỉ một ngày, để đến năm 1952 ông gom góp rồi mượn thêm tiền mua căn nhà trong hẻm. Thế nhưng khi có nhà rồi thì hai người con trai bị bắt quân dịch và đều chết trận, ông chỉ còn người con gái duy nhất và là đứa ông thương nhất. Người con gái lập gia đình có đến ba đứa con gái, đứa nào cũng được ông cho học hành đến đại học.

Ngày người con rể đi Mỹ, người con gái thưa với ông: “Ba nên làm thủ tục sang tên nhà cho mấy cháu, tụi nó có thời gian đi xin phép xây cất và sẽ xây nhà lầu cho ba má ở tới già cùng con cháu”. Ông vội vã đi lo thủ tục chuyển tên, rồi căn nhà lầu cũng nhanh chóng xây xong. Sau đó cô con gái lại đề nghị ông bán căn nhà. Ông hỏi con gái: “Bán nhà rồi cha mẹ già ở đâu con?”. Đứa con và đàn cháu bắt đầu trở mặt.

Rồi một ngày, cô con gái lấy ra 2.000 USD và nói lạnh lùng: “Phần của ba má đó, ba má không còn quyền gì trong nhà này”. Thì ra lúc xây nhà, ông đã làm giấy sang tên nên về pháp lý ông bà đâu còn quyền gì với căn nhà. Khi ông bà khăn gói ra đi, con cháu ông bán căn nhà, gửi lại hàng xóm 4 triệu đồng, nhắn rằng: “Chừng nào ổng bả chết lấy tiền đó mua hòm cho ổng bả giùm tụi này!”.

Ông đưa vợ qua Giồng Ông Tố thuê căn phòng nhỏ 4x6m giá 400.000đ/tháng. Bà bắt đầu trở bệnh, ông một mình đi chợ, nấu ăn, chăm sóc vợ bằng số tiền 2.000 USD “bán nhà”. Đến cuối năm 2004, mở bọc tiền ra coi chỉ còn 1,3 triệu đồng, cũng là lúc bà đau liệt giường, ông vừa khóc vừa đút cơm cho bà lần cuối, đặt ngay ngắn trên giường, viết lại một lá thư tuyệt mệnh nhờ những ai có lòng hảo tâm lo chôn cất giúp.

Nửa đêm ông uống hết 50 viên Paracetamol, 20 viên Malox và hai chai dầu xanh rồi nằm ngay ngắn dưới chân vợ mình. Nhưng số ông chưa tận, chủ nhà phát hiện đưa cả hai vợ chồng già đi cấp cứu. Nửa tháng sau, những người chòm xóm xưa đưa bà vào chùa làm đám tang, còn ông vào Trung tâm nuôi dưỡng người già Thạnh Lộc (Q.12, TP.HCM).



Sao nỡ trách trời xanh?

Ông ngồi ở băng ghế đá, trầm ngâm trong những nếp nhăn tràn trên khóe mắt. Đó là một người già quá hiền lành và ít nói chuyện về mình, kể cả cái tên. Thôi thì gọi ông là ông Lâm vậy. Năm nay ông đã 74 tuổi. Ông sinh ở Huế, gần chợ Đông Ba, lớn lên tí tuổi đi ở đợ. 12 tuổi, ông theo người anh vào Sài Gòn, học nghề thợ máy rồi tham gia kháng chiến và đi tập kết.

Ông có vợ ở miền Bắc và sinh được sáu người con. Tất cả đều được một tay ông nuôi ăn học thành tài. Ngày giải phóng, ông vào lại Sài Gòn, là cán bộ, hưởng lương cao nhất công ty, lại được Nhà nước phân phối nhà mặt tiền, cuộc đời ông tưởng chừng có đoạn kết thật đẹp, vậy mà…

Con cái ông đều là những người có danh phận. Cha mẹ nào dù khiêm tốn nhất cũng muốn nhắc đến con cho nở mặt nở mày. Nhưng ông không còn muốn nhắc đến. Người con gái lớn là cán bộ công an cấp tá, người con kế là giảng viên đại học và những người sau đều là sĩ quan cấp tá, cấp úy, tệ lắm cũng là thư ký tòa án quận.

Ông không nói nhưng những nhân viên ở Trung tâm Thạnh Lộc cho biết chính những đứa con mà ông cưu mang, nuôi dưỡng ăn học thành tài từ Bắc vào Nam đã đưa ông vào đây. Ông thì bảo ông có lỗi lầm và mười năm qua là thời gian để ông chiêm nghiệm lỗi lầm đó, ông đáng bị trừng phạt. Nhưng với những người biết chuyện và hiểu ông thì “lỗi lầm” của ông là ly dị vợ, là có thời gian nát rượu, là không giữ lại được ngôi nhà mặt tiền mà Nhà nước cấp mà đổi căn hộ ở chung cư khi ông về hưu.

Tôi hỏi có bao giờ con cái lên thăm ông không. Ông Lâm bảo: “Có, có, nhưng tụi nó cũng bận rộn lắm chú à. Giờ tụi nó có cơ nghiệp hết rồi, để tụi nó làm ăn lo cho con cháu, mình thì chết cũng ổn rồi”. Hỏi về căn nhà chung cư, một trong những nguyên cớ mà con cháu giận đến mức phải đưa ông vào đây, ông bảo khi vào đây đã để lại cho người con gái làm thư ký tòa án, sau này cô sang lại cho người khác và mới đây người mua nhà cũng đến kiếm ông để làm thủ tục sang tên và ông ký ngay.

Hỏi về gốc gác của ông Lâm, những cán bộ trung tâm không rõ lắm, nhưng có lẽ ông đã từng là cán bộ cao cấp, thỉnh thoảng trung tâm lại nhận được thư mời họp hội cựu chiến binh hay công văn gì đó đề tên ông và địa chỉ trung tâm.

Ông Lâm cứ luôn trách mình có lỗi lầm với con cái nên con cháu giận mới đưa ông vào đây. Ông không dám trách ai nên cũng không dám trở về đoàn tụ gia đình trong những ngày tết dù đã hàng chục năm rồi. Nhiều người trong trung tâm nói họ không hiểu “sai lầm” của ông đối với con cháu nghiêm trọng đến mức nào, nhưng liệu có cao bằng đỉnh Thái Sơn, rộng bằng nước nguồn sinh thành cao cả. Đạo làm con sao nỡ trách trời xanh!

Đã nhiều năm rồi không ai vào thăm bà, để bà cô quạnh ở trung tâm. Đến ngày bà mất, tự dưng không hiểu từ đâu cả đàn con cháu cùng đến khóc lóc thảm thiết, xong “thủ tục” là đi liền.

Vậy mà trước đó bà cứ luôn nói rằng “chúng nó có đối xử tệ bạc với mình như thế nào thì cũng là con mình”.

Bác sĩ Trần Thị Hải, phó giám đốc Trung tâm Bảo trợ xã hội 3 (Hà Nội), cho biết trung tâm chỉ tiếp nhận những người già không có thân nhân. Do vậy tất cả những người già vào đây trong hồ sơ đều ghi không có con cái hoặc con cái đều đã chết, thất lạc... Nhưng sự thật lại là một thực tế đau lòng.

Khi xưa ta bé

Khi xưa ta bé magnify

Lúc bé, tưởng khóc là buồn, bây giờ phát hiện buồn nhất là không thể khóc được, cứ trống rỗng, tỉnh táo và vô hồn Lúc bé, tưởng cười là vui, bây giờ nghĩ lại, có những giọt nước mắt còn vui hơn cả một trận cười. Lúc bé, tưởng đông bạn là hay, bây giờ mới biết vẫn chỉ có mình mình. Lúc bé, tưởng cô đơn ở đâu xa lắm, chỉ đến ở những chỗ không người, đến giờ mới hiểu, lúc bên nhau, sự ấm áp mới thật mong manh, mà nỗi cô đơn sao lại gần gũi thế. Lúc bé, tưởng yêu là tất cả,là mọi thứ, lớn rồi mới biết sau yêu còn có chia tay.....

Mùi hương

magnifyMùi hương

Mùi hương


Tôi là một chàng trai thông minh, trẻ trung, dễ thương, nhút nhát và dịu dàng. Tôi biết chắc mình là một mẫu đàn ông lý tưởng. Nhưng khốn khổ chưa và cũng đáng ngạc nhiên chưa, khi các cô gái lại không biết điều đó.

Các cô gái hôm nay sao mà phù phiếm. Và chả thể nào đoán trước được. Khi gặp một thiếu nữ xinh đẹp, tôi cố chứng tỏ thông minh thì nàng cho biết là nàng thích mẫu người đàn ông khỏe mạnh. Khi gặp một thiếu nữ xinh đẹp khác, tôi chứng tỏ mình khỏe mạnh thì nàng tuyên bố chỉ thích đàn ông nhạy cảm. Còn lúc gặp một cô xinh đẹp cuối cùng, tôi khoe sự nhạy cảm thì nàng khẳng định nàng chỉ thích đàn ông có dáng phong trần. Tôi tuyệt vọng. Tôi chán nản. Tôi bất cần. Tôi muốn sống cho tôi... Ăn mặc đẹp, đi xe đẹp, vào các tiệm ăn đẹp, tôi tận hưởng những cảm giác sang trọng để tự ngưỡng mộ mình.

Chính lúc ấy, tôi gặp nàng. Nàng xinh xắn, nàng cá tính và quyết liệt. Ngay phút đầu tiên gặp gỡ, nàng đã chỉ tay vào mặt tôi và nói lớn:

- Anh kia, em yêu anh.

Tôi choáng váng. Dù là một đàn ông thế kỷ 21 hiện đại, tôi cũng chưa quen với cách tỏ tình nhanh và mạnh đến thế.

Tôi run run hỏi:

- Vì sao, thưa cô?

Nàng tuyên bố:

- Không phải vì đẹp trai, không phải vì học thức. Chỉ vì anh có một mùi hương đặc biệt. Mùi hương? Thôi đúng rồi, tôi đang xài một loại nước hoa mới ra lò, được bày bán công khai tại siêu thị. Nó tỏa ra một mùi rất kỳ lạ, là sự pha trộn một cách tinh tế, phức tạp giữa hoa hồng, hoa nhài, nước bọt chim khổng tước và nước thơm trong dạ dày con hươu xạ, cùng nước mắt của con hải cẩu. Đấy là căn cứ vào thành phần ghi trên nhãn mác.

Tôi sung sướng quá, bàng hoàng quá khi phát hiện ra rằng phụ nữ có thể yêu ta từ những lý do ta không hề ngờ tới, rất độc đáo và khác thường.

Cuộc đời tôi sang trang. Tôi cùng nàng đi ăn kem, đi tắm biển, đi xi-nê và đi dạo phố.

Chúng tôi, như tất cả các đôi yêu nhau, nói với nhau những lời bất tận về cuộc sống, về nghệ thuật và thể thao.

Chỉ trong những buổi đi chơi như thế, tôi không bao giờ quên bôi đẫm nước hoa. Một thứ nước hoa tinh tế, đầy phong cách và lãng mạn đã ghi sâu vào ký ức nàng.Thế nhưng, đùng một cái.

Kẻ kia xuất hiện. Một kẻ tầm thường, thô lỗ và nặng nề. Hắn thua tôi mọi mặt, chỉ trừ một điều, hắn bôi một thứ nước hoa rất kỳ quái. Nó là sự kết tinh của hoa ti-gôn, của hoa ngọc lan và nước rửa chén cộng với mỡ trong da mèo. Nó tỏa ra một mùi hương mê muội và tàn phá.

Nàng có vẻ thích hắn, đúng hơn là cái mùi của hắn. Nàng lạnh nhạt với tôi. Một sự lạnh nhạt đau đớn âm ỉ và nhói buốt.

Tôi cố gắng vùng vẫy trong tuyệt vọng. Tôi đổ đầy nước hoa lên áo, lên cổ và lên giày. Tôi dùng mỗi bữa nửa lít. Nhưng không ăn thua. Nàng có vẻ đã ngả sang hắn hoàn toàn. Ôi, trong những thứ mà một người đàn ông có thể thua cuộc, hóa ra có thua cuộc về mùi.

Hôm nay là ngày quyết định. Tôi sẽ đi để nói với nàng lời phán xử cuối cùng. Tôi biết rằng gã kia cũng tới. Đã đến giờ phút ba mặt một lời.

Tôi vận bộ quần áo sang trọng, thắt chiếc cà vạt rực rỡ và tròng vào chân đôi giày bóng như gương. Tôi định bôi nước hoa vào người nhưng lại thôi. Để làm gì chứ? Tôi đã buông vũ khí đầu hàng.

Tới tiệm cà phê, nơi hai đứa đã làm quen. Gã kia cũng tới, còn diện hơn tôi và thơm phức hơn tôi.

Vừa thấy gã xuất hiện, nàng thét lên kinh hãi. Nàng lao về phía tôi:

- Em yêu anh. Đưa em đi, đưa em đi nhanh.

Tôi sửng sốt:

- Kìa, sao em không thích anh chàng thơm tho, bôi nước hoa đặc biệt kia nữa.
Nàng nức nở:

- Báo vừa tuyên bố, trong nước hoa có chất ung thư. Từ nay em yêu những kẻ không mùi!