Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2008

Ơn nghĩa sinh thành (4)

Bài bốn: Ngọn nến không tắt



Ánh đèn tù mù không chiếu sáng nổi căn nhà tăm tối. Tô Văn Khải cặm cụi ngồi đan rổ rá. Nước da sạm đen, gương mặt khắc khổ, anh trông già hơn hẳn tuổi đời 35 của mình.

Cha mẹ bị nhiễm chất độc da cam và bị thương mất sức nặng từ lúc còn trong chiến khu Tây Ninh. Hai em gái là Nương và Huệ chào đời sau chiến tranh cũng bị bại não. Khải may mắn được là người bình thường và trách nhiệm gia đình dồn hết lên vai anh.

Là con, là anh và là cha mẹ

Tuổi thơ Tô Văn Khải ở Tây Ninh là chuỗi ngày khốn khó. Mới lên lớp 4, Khải đã tự đi làm đồng để lo toan việc nhà, có lúc gia đình không còn cả khoai mì ăn cầm hơi. Thương cha thương mẹ một đời nghèo khó nuôi con, nhiều đêm đợi cha mẹ ngủ, Khải lặng lẽ đẩy xe đạp vào rừng, gom cành cây khô đốt than để về đổi gạo. Có lúc bị lực lượng tuần rừng đuổi bắt, Khải sợ hãi trốn biệt luôn trong rừng. Khải nói mình ít học, đúng hơn là tự nghỉ học sớm để lăn ra đời làm đủ thứ nghề nuôi sống gia đình. Hết việc ruộng vườn, cậu lại đi mót phân bò trên đồng. Lúc ấy, cả gánh phân chỉ đổi được vài lon gạo nhưng cũng là niềm vui lớn vì cha mẹ lại có được bữa cơm nóng.

Cuối những năm 1980, cả gia đình chuyển về xã Trung Lập Thượng, huyện Củ Chi (TP.HCM) để có điều kiện chăm sóc cha mẹ ngày càng đau nặng. Chứng cao huyết áp và phù thũng làm tay chân ông Tô Văn Mô yếu hẳn, không cầm nổi vật nặng nữa. Còn bà Lê Thị Hái thì vết thương trên đầu tái phát. Nó là miểng bom trong chính trái bom ngày xưa đã giết chết người em trai ngay trước mắt bà, và làm hai chân bà co rút bại liệt cùng với thần kinh lúc tỉnh lúc mê.

Khải thương nhất là hai em gái bị bại não, các em hầu như không biết làm bất cứ việc gì, kể cả tự đưa chén cơm lên miệng. Bình thường hai em cứ lầm lũi như chiếc bóng trong nhà, nhưng mỗi khi trời trở nắng nóng, chứng động kinh lại hành hạ các em, những cơn đau làm các em tự dằn xé, lao đầu vào vách, mặt mày lúc nào cũng chằng chịt vết sẹo, vết bầm vì té ngã. Khải đi đâu, làm việc gì cũng không thể yên tâm khi hai em ở nhà. Rất nhiều lần anh đã cứu sống em trong gang tấc khi cơn động kinh làm các em té ngã xuống kênh, ao quanh nhà. Đi làm về là Khải một tay tắm rửa, đút cơm cho các em. Có món gì ngon Khải cũng dành mang về cho em.

Những ngày không tìm được việc làm, Khải cõng mẹ đi quanh quẩn trong nhà, ngoài sân để mẹ dịu bớt cơn đau, như một chuyến đi chơi của người già. Có hôm mẹ bất ngờ tái bột phát bạo bệnh trong đêm, Khải vừa khóc vừa cõng mẹ trên vai băng đồng chạy đến trạm xá xã, có lúc cõng xuống tận trung tâm y tế huyện.

Một mình Khải gánh vác cả nhà đau ốm ngặt nghèo, nhưng bà con lối xóm cho hay chưa bao giờ nghe anh than lấy một lời. Khải nói buồn nhất là căn nhà bặt hẳn tiếng cười. Anh kể có lúc tưởng cả gia đình đã cùng ra đi khi anh đổ bệnh liệt giường ròng rã suốt hơn một tháng. Tiền nong không. Gạo củi, thuốc men cũng không. Cha, mẹ, các em mỗi người nằm lê lết một góc nhà. Trong cơn khốn cùng, anh cầm chai thuốc trừ sâu, muốn gia đình không cùng sống thì sẽ cùng chết bên nhau. May mà anh kịp tỉnh lại và ráng sức gượng dậy để giữ tròn đạo hiếu.

Sau lần ấy, Khải như già thêm mươi tuổi. Anh ý thức được sự sống của mình quan trọng đối với gia đình đến chừng nào. Nhiều đợt lo chữa bệnh cho cha mẹ, Khải phải âm thầm đi vay tiền. Gia đình không có gì để thế chấp vay ngân hàng, anh phải vay nóng bên ngoài với lãi suất đến 40%/tháng, rồi nhịn ăn và lăn ra làm ngày làm đêm để trả nợ. Sau này nghe người trong xóm kể lại, cha mẹ anh đã khóc hết nước mắt: “Hay con cứ để ba má ra đi. Như vậy ba má còn thấy nhẹ lòng hơn. Chứ con gánh vác cả đời như vậy sức đâu mà chịu thấu”.

Nỗi buồn và hi vọng



Ông Tô Văn Mô là con trai út trong gia đình có bốn liệt sĩ. Đến đời Khải thì cũng chỉ có mình anh là con trai để nối dõi gia đình. Ông bà yếu lắm rồi, sợ ra đi không thấy được tương lai, niềm vui của đứa con trai độc nhất. Họ nhiều lần nhắc chuyện vợ con cho anh nhưng Khải đều lắc đầu nấn ná.

Ông bà Mô xúc động hiểu lòng con hiếu thảo nên khơi gợi vào chính “yếu điểm” của anh: “Cả nhà chỉ có một đứa con trai. Nếu con không lo sinh cháu cho ba má thì phạm tội bất hiếu con ơi. Lấy vợ đi rồi sinh cháu cho ba má yên tâm”. Khải khóc, thắp nén nhang cắm lên bàn thờ.

Ngày Khải quyết định ngỏ chuyện cưới xin một cô gái hiền lành làm thuê chung xóm, ông bà Mô mừng đến phát khóc. Một lễ cưới thật nghèo nhưng chan hòa tình cảm gia đình hàng xóm. Cháu Tô Thị Khài chào đời, ông bà Mô ngồi lặng cả đêm bên bàn thờ bốn liệt sĩ trong gia đình, cầu xin cho cháu được bình thường và cũng là cho sự tiếp nối của dòng họ. Bé Khài lên 3 tuổi chưa biết nói, chỉ lầm lũi vọc đất cát chơi một mình. Cả nhà lo sợ tưởng sự bất hạnh vẫn chưa từ bỏ gia đình. Rồi bỗng dưng một ngày bé bật lên tiếng ông, bà ngọng nghịu. Mọi người sững sờ, rồi chảy nước mắt vì mừng. Những tiếng cười đầu tiên đã vang lên trong căn nhà nghèo khó.

Nhưng khốn khó vẫn chưa buông tha người con hiếu thảo, em Nương trong một cơn động kinh đã không thể vượt qua khỏi. Nhìn con gái cả đời phải sống bất hạnh rồi ra đi trong đau đớn, bà Mô cứ khóc và đổ bệnh nằm liệt giường. Khải lại cõng mẹ vào bệnh viện, chạy chữa hơn một tháng ở Bệnh viện Trưng Vương. Người mẹ gần 30 năm mê nhiều hơn tỉnh, nhưng đến ngày cuối đời lại rất tỉnh táo. Bà chia tay chồng, ôm chặt cháu trong lòng, rồi trăng trối với Khải: “Con đừng buồn để má ra đi trong thanh thản. Các con ở lại phải ráng lo cho ba, lo cho em Huệ nữa, chỉ có con mới có thể gánh vác việc này”.

Em gái mất, mẹ mất. Tất cả tình thương yêu của Khải dành cho những người thân còn lại trong gia đình. Hết cõng mẹ, bây giờ anh lại ngày ngày cõng cha bị bại liệt. Vợ chồng Khải không còn dám cùng đi đâu ra ngoài dù chỉ trong chốc lát, vì lo cho cha và em có thể phát bệnh bất cứ lúc nào. Cha Khải thương con, an ủi: “Ba má già như chuối chín cây đến ngày phải rụng. Con nên dành thời gian cho vợ cho con. Đó là hạnh phúc, là tương lai của con và cũng là niềm vui của ba má ở thế giới bên kia”.

Nước mắt, nụ cười của sự khổ đau lẫn tình thương yêu lại quyện vào nhau trong ngôi nhà nghèo khó. Khải như một ngọn nến giữa bôn ba cuộc đời, nhưng ngọn nến ấy không bao giờ tắt. Ngoài cổng, bé Khài vừa đi học về, lễ phép vòng tay thưa ông, thưa ba. Nụ cười trên môi người con hiếu thảo thật rạng rỡ.

Không có nhận xét nào: